APL - VAN GIỚI HẠN ÁP SUẤT CÓ THỂ ĐIỀU CHỈNH

Van giới hạn áp suất có thể điều chỉnh. Adjustable pressure limiting - thường được viết tắt là van APL

BS. Nguyễn Sỹ Linh

VAN GIỚI HẠN ÁP SUẤT CÓ THỂ ĐIỀU CHỈNH LÀ GÌ ?

Van giới hạn áp suất có thể điều chỉnh (adjustable pressure limiting - thường được viết tắt là van APL, và còn được gọi là van thở ra - expiratory valve, van xả - relief valve  hoặc van tràn - spill valve) là một loại van điều chỉnh lưu lượng được sử dụng trong gây mê như một phần của hệ thống thở. Nó cho phép lưu lượng khí mới dư thừa và khí thở ra khỏi hệ thống đồng thời ngăn không khí xung quanh xâm nhập vào.

Những chiếc van như vậy lần đầu tiên được mô tả bởi nha sĩ người Mỹ Jay Heidbrink, người đã sử dụng một đĩa mỏng được giữ cố định bằng lò xo. Van có thể điều chỉnh và có lò xo, cho phép điều khiển áp suất mở của van bằng cách vặn đầu van để điều chỉnh áp suất trên lò xo. Một lò xo rất nhẹ được sử dụng để van có thể được mở ở mức tối thiểu mà bệnh nhân thở bằng cách sử dụng áp suất thấp. Trong các van APL hiện đại, có ba lỗ hoặc "cổng": một để nạp khí vào, một để trả lại khí cho bệnh nhân và một cổng xả cho khí thải có thể được kết nối với hệ thống thu gom.

Vị trí của van APL

 CÁC LOẠI VAN APL

Vale cân bằng

Van một chiều có trọng lượng ngăn không cho khí chảy ngược sau khi khí đến hệ thống gom. Van cân bằng thể thay đổi kiểm soát tốc độ khí thoát ra từ mạch thở, do đó kiểm soát áp suất mạch. Áp suất trong mạch thở sẽ phụ thuộc vào tốc độ dòng khí mới.

Van giảm áp

Van giảm áp hoặc van an toàn áp suất được sử dụng để bảo vệ thiết bị hoặc hệ thống đường ống trong trường hợp quá áp hoặc trong trường hợp chân không. Van này xả áp suất hoặc chân không ở một áp suất cài đặt được xác định trước.

A.  Áp suất của mạch thở vẫn chưa vượt quá sức căng của lò xo.
B. Áp suất mạch thở đã vượt quá áp suất cài đặt (độ căng của lò xo), và khí sẽ được thoát ra bộ lọc khí. Với loại điều chỉnh áp suất của van APL, áp suất mạch không phụ thuộc vào tốc độ dòng khí mới.
C. Khi van được đặt ở chế độ tự thở, đĩa được nâng ra khỏi chân van và khí đi tự do đến bộ lọc. Van một chiều ở bên dưới ngăn không cho khí thải quay trở lại mạch thở.

SỬ DỤNG VAN TRONG GÂY MÊ

Dự trữ Oxi

Sử dụng để dự trữ oxi cho bệnh nhân áp dụng áp suất dương 5 cmH2O bằng van APL đã cải thiện quá trình tiền oxi hóa so với thở tự nhiên. Cho bệnh nhân thở Oxi 100% lưu lượng 12l/p trong 03 phút nhóm bệnh nhân sử dụng Van APL dự trữ Oxi tốt hơn nhóm thở tự nhiên.[1]  

Vì vậy khi tiến hành dự trữ Oxi (Preoxygenation) nên để áp lực van APL là 5 cmH2O.

Khởi mê

Cơ vòng thực quản trên (UES) là cơ hầu họng tác động lên vùng chuyển tiếp giữa thực quản và hạ họng. Cơ vòng thực quản dưới (LES) được cấu tạo bởi sợi cơ tròn ở chỗ nối giữa thực quản và dạ dày, hoạt động như một cơ vòng thực sự. Sự khác biệt giữa áp lực thực quản dưới (LOP) và áp lực dạ dày được gọi là áp lực hàng rào thực quản. Áp lực dạ dày nhỏ hơn 9.5 cmH2O, LOP ở bệnh nhân tỉnh táo cao hơn áp lực dạ dày từ 2034 cmH2O. LOP giảm làm giảm áp lực hàng rào và tăng nguy cơ nôn, trớ. Tất cả các thuốc gây mê ngoại trừ Ketamine cũng như thuốc giãn cơ đều làm giảm trương lực cơ vòng thực quản trên.

Leon và cộng sự. báo cáo rằng áp suất UES ở những bệnh nhân được gây mê bằng truyền Remfentanil và propofol lên tới trung bình 40 cm H2O với giá trị lớn hơn 20 cm H2O ở phần lớn bệnh nhân. Tuy nhiên, UES nhạy cảm với sự giãn cơ và phong tỏa toàn bộ thần kinh cơ đã làm giảm áp lực của UES dưới 15 cm H2O ở hơn 50% bệnh nhân.

Bouvet và cộng sự đã phát triển và sử dụng một kỹ thuật siêu âm thời gian thực để hình ảnh hóa sự xâm nhập của khí vào dạ dày. Bằng cách sử dụng phương pháp này để phát hiện các khí vào dạ dày, họ đã xác định được ngưỡng áp suất hít vào để ngăn ngừa sự khí vào dạ dày trong quá trình thông khí có kiểm soát áp suất với Mask là khoảng 15 cm H2O, thấp hơn áp suất được đề nghị là 20 cm H2O đã được xác định trước đó bằng phương pháp nghe dạ dày bằng ống nghe. Từ đó cho thấy nguy cơ trào ngược dạ dày cao ngay cả khi áp lực thở được đặt ở 15 cm H2O.

Vì vậy khi khởi mê nên để áp lực APL từ 15-20 cmH2O.

Tuy nhiên phụ thuộc vào bối cảnh thực tế của bệnh nhân cũng như kỹ thuật gây mê để áp dụng cho phù hợp.2

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A practical method to improve preoxygenation: Using the APL valve. Mahmut Arslan, Cengizhan Yavuz.
2. Facemask Ventilation during Induction of Anesthesia How “Gentle” Is “Gentle” Enough? Shiroh Isono, M.D., Ph.D., Matthias Eikermann, M.D., Ph.D., Takeo Odaka, M.D., Ph.D.
3. Miller’s anesthesia Edition 9
Bác sĩ Gây mê hồi sức - Điều trị đau . Bệnh viện Vinmec Nha Trang

4 nhận xét

  1. Trong nhiều tài liệu có nói rằng Propofon có tác dụng chống nôn mà bạn
    1. Chống nôn người ta tiêm khoảng 20 mg Propofol. Cơ chế chưa rõ. Có lẽ làm bệnh nhân quên cảm giác buồn nôn. Còn đây là gây mê.
  2. Tất cả các thuốc gây mê ngoại trừ Ketamine cũng như thuốc giãn cơ đều làm giảm trương lực cơ vòng thực quản trên.
    Câu này của bạn có vẻ không đúng lắm
    1. Ko phải của mình. Người ta nghiên cứu vậy.