Cách đây 76 năm, ngay sau khi thế chiến 2 kết thúc 1946, mặc dù làm việc trong điều kiện vô cùng thiếu thốn nhưng Thomas Cecil Gray đã cố gắng miêu tả một trong những đóng góp quan trọng nhất cho gây mê lâm sàng : khái niệm gây mê cân bằng, còn được gọi là kĩ thuật Liverpool.
- Năm 1926 khái niệm “gây mê cân bằng - balanced anaesthesia” đã được đưa ra bởi Lundy bệnh viện Mayo Clinic người đã kết hợp hai thuốc gây mê Barbiturat + thuốc mê dạng hít để gây mê và gây tê vùng để giảm đau.
- 1942 Griffith và Johnson từ Montreal đã mô tả việc sử dụng liều lượng nhỏ ‘Intocostrin’, chiết xuất từ cây Chondrodendron tomentosum ở Nam Mỹ, để giảm trương lực cơ trong phẫu thuật bụng. Những bệnh nhân này vẫn thở tự nhiên.
- Gray và Halton dựa trên khái niệm ban đầu của Lundy và các bài báo mang tính cách mạng của Griffith và Johnson để phát triển khái niệm của mình.
- Ngày 01/3/1946 , T. Cecil Gray đã có bài giảng ' A Milestone in Anaesthesia - Một mốc quan trọng trong gây mê' tại Hiệp hội Y khoa Hoàng gia ở London, nơi ông đưa ra những nguyên tắc ban đầu trong khái niệm của mình.Vào thời điểm đó, Grey và Halton cho rằng gây mê cân bằng nên nhằm mục đích giảm liều của barbiturat và thuốc mê dạng hít bằng cách thêm thuốc giãn cơ d-tubocurarine, một dẫn xuất của Intocostrin.
Việc sử dụng các loại thuốc khác nhau mỗi loại tạo ra một tác dụng mong muốn cho phép sử dụng liều thấp nhât của mỗi thuốc. Do đó tạo ra tinh trạng mê nhẹ mà không có cử động hoặc phản xạ. Kĩ thuật này gọi là kĩ thuật Liverpool và 76 năm sau (2022) vẫn là khái niệm cơ bản của Gây mê.
Báo cáo đầu tiên năm 1946 gồm 3 kĩ thuật dựa trên thời gian phẫu thuật:
Kĩ thuật 1: Phẫu thuật ngắn. Sau khi tiền mê bằng “morphia” và Atropine. Gây mê bằng hỗn hợp Pentothal 0,5 g và tubocurarine 15 mg tĩnh mạch. Sau 2-3 phút nếu bệnh nhân suy hô hấp hoặc ngưng thở thì đặt Nội khí quản.
Kĩ thuật 2: Đối với các thủ tục phẫu thuật dài hơn, liều nhỏ Pentothal (0,1 g) và tubocurarine (2–4 mg) được cho tăng dần trong suốt quy trình khi bệnh nhân phản ứng với kích thích phẫu thuật và yêu cầu của phẫu thuật viên. Khi cần thiết, thuốc mê hơi (xyclopropan hoặc dietyl ete) được sử dụng để duy trì mê.
Kĩ thuật thứ 3: Tubocurarine chỉ được sử dụng như một chất bổ trợ cho việc gây mê qua đường hô hấp. Tiêm ngắt quãng tổng liều tubocurarine 15–30 mg được sử dụng để giãn cơ nếu cần trong khi vẫn giữ bệnh nhân trong trạng thái gây mê nhẹ.
Thông khí nhân tạo bằng bóp bóng, và bất kì kĩ thuật nào được sử dụng thì người ta nhấn mạnh rằng oxy phải được cung cấp tốt hơn bằng một vòng kín.
Năm 1950 Rees and Gray đã sử dụng methyl-n-propyl để hình thành bộ ba kinh điển: Giảm đau + thuốc mê + giãn cơ. Đây là lần đầu tiên gây mê cân bằng xem như một bộ ba.
Sau 6 năm phát triển, năm 1952 mô tả cổ điển về kĩ thuật gây mê Liverpool thực sự ra đời.
Trải qua nhiều nhiều khó khăn và luôn bị chỉ trích nhưng Gray và cộng sự đã không từ bỏ và ngày càng hoàn thiện kĩ thuật của mình và phản biện lại các quan điểm đối nghịch khi có cơ cơ hội. Những đóng góp của ông là cực kì quan trọng đối với Gây mê hiện đại. Ông cũng là người giới thiệu Train Of Four - TOF để theo dõi giãn cơ còn sử dụng đến ngày nay.
Thomas Cecil Gray sinh ngày 11/3/1913 - mất ngày 05/01/2008.
Bác sĩ Nguyễn Sỹ Linh - Theo tạp chí Gây mê vương quốc Anh