Lịch sử
Năm
1941, Hiệp hội Bác sĩ gây mê Hoa Kỳ (ASA) đã xuất bản một cuốn sách nhỏ
cho các thành viên của mình bao gồm phiên bản đầu tiên của phân loại tình trạng
sức khỏe cho bệnh nhân sắp trải qua phẫu
thuật.
Hệ thống phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ (ASAPS) cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng một phân loại đơn giản
về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân có thể hữu ích trong việc dự đoán nguy cơ phẫu thuật. ASAPS khởi
đầu từ năm 1941, và đã trải qua một số sửa đổi kể từ thời điểm đó đến
nay.
Chức năng
Các Bs gây mê sử dụng hệ
thống thang điểm này để cho
biết sức khỏe bệnh
nhân trước phẫu thuật nhằm giúp quyết định xem bệnh nhân có nên phẫu thuật hay
không. Để dự đoán nguy cơ phẫu thuật, các yếu tố khác cần xem xét bao gồm:
Tuổi
Bệnh lý kèm theo
Mức độ và thời gian của
thủ thuật, phẫu thuật
Kế hoạch và kỹ thuật gây
mê.
Kỹ năng của đội phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật
Thiết bị có sẵn
Các sản phẩm máu cần
thiết
Thuốc
Cấy ghép cần thiết
Chăm sóc hậu phẫu dự
kiến
Ý nghĩa lâm sàng
ASAPS ghi
nhận trên một bệnh nhân cụ thể
không thể đóng vai trò là chỉ số trực tiếp về nguy
cơ phẫu thuật, vì (ví dụ) nguy cơ phẫu thuật cho bệnh nhân có nguy cơ
cao được phẫu thuật đục thủy tinh thể dưới gây tê tại chỗ khá khác so với nguy
cơ phẫu thuật cho cùng
một bệnh nhân được phẫu thuật cắt bỏ thực quản hoặc phẫu thuật tim. Ngoài ra,
vì ASAPS cho một bệnh nhân cụ thể dựa trên mức độ bệnh toàn
thân của họ (theo đánh
giá bệnh sử nội khoa của bệnh nhân, mức độ giới hạn chức năng của bệnh nhân,
v.v.), về mặt khác, các vấn đề về thể chất như sự hiện diện của đường thở
khó, hoặc luật cấm truyền máu trên lâm sàng cho những bệnh nhân theo
một số tôn giáo không ảnh hưởng đến
ASAPS, nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng mạnh đến nguy cơ phẫu thuật
của bệnh nhân.
Người
ta đã chứng minh rằng các bác sĩ gây mê đôi khi thay đổi đáng kể trong phân loại
ASAPS được chỉ định cho bệnh nhân, đặc biệt là ảnh hưởng của các yếu tố như tuổi
tác, thiếu máu, béo phì và với những bệnh nhân đã hồi phục sau nhồi máu cơ tim.
Cuối
cùng, cần lưu
ý rằng hệ thống phân loại ASAPS mặc nhiên cho rằng tuổi tác không liên quan đến
thể lực sinh lý, một giả định đơn giản không đúng vì trẻ sơ sinh và người già,
ngay cả khi không có bệnh, cũng dễ bị tổn thương hơn về khả năng gây mê so với
người trẻ tuổi. Tuy nhiên, mặc dù có những hạn chế khác, phân loại ASAPS được sử
dụng phổ biến (mặc dù đôi khi không chính xác) trong việc cung cấp mô tả thuận
tiện về tình trạng chung của bệnh nhân phẫu thuật.
Phiên bản mới nhất của hệ thống phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội Bác sĩ gây mê Hoa Kỳ được phê chuẩn bởi các thành viên ASA vào ngày 15 tháng
10 năm 2014. Lưu ý rằng không có phân loại cụ thể cho bệnh nhân mắc bệnh toàn
thân vừa phải, chỉ phân loại cho bệnh nhân mắc bệnh toàn thân nhẹ (ASA 2) và những
người mắc bệnh toàn thân nặng (ASA 3).
Bảng phân loại ASA hiện nay
ASA 1: Bệnh nhân có sức khỏe bình thường. Vd: Khỏe mạnh, không béo phì (BMI < 30), không hút thuốc lá với khả năng dung nạp vận động tốt.ASA 2: Bệnh nhân có bệnh toàn thân nhẹ.Vd: Bệnh nhân không có giới hạn chức năng và bệnh được kiểm
soát tốt (ví dụ: bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường được
kiểm soát tốt, béo phì với BMI < 35, hút thuốc lá, mang
thai, rối loạn chức năng phổi nhẹ…v.v.).
ASA 3: Bệnh nhân có một bệnh toàn thân nặng không nguy hiểm đến
tính mạng. Bệnh nhân bị hạn chế chức năng do bệnh (ví dụ, tăng huyết áp hoặc tiểu
đường điều trị kém, béo phì, suy thận mạn tính, bệnh co thắt phế quản có những đợt cấp nặng, đau thắt ngực ổn định,
đặt máy tạo nhịp tim).
ASA 4: Bệnh nhân có bệnh toàn thân nặng liên tục đe dọa tính mạng. Vd: Bệnh nhân bị giới
hạn chức năng do bệnh nặng, đe dọa tính mạng (đau thắt ngực không ổn định, bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính kiểm soát kém, suy
tim có triệu chứng,
và gần đây (chưa đầy ba tháng) nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ.
ASA 5: Bệnh nhân trong tình trạng
nguy kịch sẽ tử vong nếu không phẫu thuật. Bệnh nhân dự kiến sẽ không qua khỏi trong 24 giờ tới nếu không phẫu thuật. Ví
dụ: vỡ phình động mạch chủ bụng, chấn thương lớn và xuất huyết nội sọ lan rộng.
ASA 6: Bệnh nhân chết não được lấy nội tạng với ý định
cấy ghép cho bệnh nhân khác.
Việc thêm "E" vào ASAPS (ví dụ: ASA 2E) có nghĩa là phẫu thuật cấp cứu. ASA định nghĩa một trường hợp cấp cứu là "khi sự chậm trễ trong điều trị bệnh nhân sẽ dẫn đến sự gia tăng đáng kể mối đe dọa tính mạng hoặc một bộ phận cơ thể
Vấn đề này có thể được cải thiện với việc sử dụng các ví dụ cụ thể trong phân loại ASA mới hiện nay, giúp các bác sĩ gây mê về cơ bản tăng khả năng xác định đúng loại ASA.
Tài
liệu tham khảo
Daniel
John Doyle ; Amandeep Goyal ; Pankaj Bansal ; Emily H. Garmon. American Society of Anesthesiologists Classification
(ASA Class). Last Update: July 4, 2020.